Tháng ba
trên đất Bắc, tiết trời như vẫn còn xuân. Khắp nơi, cây cỏ hoa lá đều đâm chồi
nẫy lộc, như khoe hương sắc rực rỡ nõn nường. Tố Như tiên sinh Nguyễn Du, khi
sáng tác Ðoạn Trường Tân Thanh, mặc dù cốt truyện và bối cảnh hoàn toàn mượn
của Trung Hoa nhưng chắc chắn ông đã rung động trước cảnh trời quang mây tạnh,
non nước hữu tình, trên quê hương dấu yêu trân quý, nên đã hạ bút viết :
‘ cỏ non
xanh rợn chân trời,
cành lê
trắng điểm một vài bông hoa
thanh minh
trong tiết tháng ba
lễ là tảo
mộ, hội là đạp thanh.’
Mặc dù tập
quán của người VN ba miền có dị biệt nhưng riêng lễ Thanh Minh, thì cả nước gần
như đều giống nhau, từ phong cách cho tới tập tục. Suốt ngày lễ, mọi người đều
rủ nhau đi tảo mộ và cúng tế những người thân đã khuất mặt. Ngoài ra tại các
Hàn Lâm Sở nơi bãi tha ma, đều có tổ chức cúng tập thể những oan hồn uổng tử,
tiền bạc chi phí đều do bá tánh ủng hộ. Nhưng rồi VC về, người sống còn nát cửa
nhà tan đến nỗi mười phương ly tán, nên ai đâu còn dịp, để săn sóc mộ phần của
thân quyến, như thuở thanh bình. Và cũng chẳng riêng gì những nghĩa trang quân
đội của VNCH, mà gần như mọi nơi từ Quảng Trị vào tới Hà Tiên và mới đây vào
ngày 15-12-2004 hơn 10.000 ngôi mộ, phần lớn mơí chôn tại Phú-Hài thành phố
Phan Thiết, bị bốc hốt dày mồ. Nổi tang thương hoang phế, của kiếp người sống
dưới gông cùm tàn độc, làm cho kẻ ngoại cuộc nhìn vào, chắc cũng không thể cầm
nổi nước mắt . Kiếp đời bi thương tàn úa đó, đâu có khác gì thân phận bèo bọt
của nàng Ðạm Tiên, trong truyện Kiều :
‘sè sè nắm
đất bên đường,
rầu rầu
ngọn cỏ, nửa vàng nữa xanh
rằng nay
trong tiết Thanh Minh,
mà sao
hương khói vắng tanh thế này ? ‘
1-
Tiết Thanh Minh :
Thanh Minh
là tiết thứ năm trong hai mươi bốn tiết của năm theo âm lịch. Lể hôi này tuy
không quan trọng bằng những ngày Nguyên Ðán đầu năm nhưng cũng được các dân tộc
theo tam giáo (Phật, Lão, Nho), coi như một trong những lễ tết, thường đến vào
tháng ba âm lịch. Theo từ nguyên, thì Thanh có nghĩa là khí trong, còn Minh là
sáng sủa. Nên thường hôm đó, bầu trời rất là trong veo sáng dịu, mưa xuân gần
như đã dứt nhưng cảnh vật vẫn xanh tươi đầm ấm, có thể nói là thời gian đẹp
nhất trong năm. Nhân đó, người Á Ðông nhất là Trung Hoa và Việt Nam, đua nhau
đi tảo mộ gia tiên. Còn nam thanh nữ tú thì mở hội đạp thanh.
Tại các
bãi tha ma quanh năm suốt tháng hoang vắng cô tịch, ngày hôm đó bổng trở nên
náo nhiệt tưng bừng. Khắp nơi mọi người lũ lượt kéo nhau đi dãy mả, sửa sang mộ
phần. Bốn hướng đâu đâu cũng nghi ngút khói hương, thơm nồng mùi hoa quả. Hầu
như ai cũng phấn khởi, yêu đời, thật là : ‘ dập dìu tài tử giai nhân, ngựa xe
như nước áo quần như nêm .. ’ ’
Tóm lại,
nước ta ở đâu cũng đều có lễ hội Thanh Minh vào tháng ba âm lịch. Tuy nhiên
cũng có vài địa phương như vùng Thị Cầu, Ðáp Cầu (Vĩnh-Phúc Yên), Sài Gòn-Chợ
Lớn, mọi người thưởng cử hành lễ tảo mộ vào những ngày Nguyên Ðán. Riêng vùng
Trung châu, thuộc hạ lưu sông Hồng như Hà Ðông, Hà Nam (Bắc Việt), đất thấp vào
mùa mưa là ngập nước. Bởi vậy lể tảo mộ hằng năm phải tổ chức vào mùa khô, khi
nước đã rút hết vào tháng chín âm lịch.
Quê tôi
Phan Thiết, ngày hội Thanh Minh được tổ chức rất là trọng thể và đặc biệt, từ
ba trăm năm qua, được người bản địa coi như là một mỹ tục của tỉnh Bình Thuận.
Tại dây, hằng năm có hai phiên chợ đêm, một vào những ngày cuối năm âm lịch.
Phiên thứ hai được nhóm trước ngày Thanh Minh. Ðêm đó, mọi người rủ nhau đi chợ
mua bánh trái, hoa quả, hương đèn và nhất là món đặc biệt không thể thiếu được,
trong lễ tảo mộ : Ðó là heo quay, bánh hỏi. Lễ vật trên vừa để cúng gia tiên,
quyến thuộc đã khuất tại nhà cũng như nơi phần mộ.
2-
Một vài tập tục ma chay trên thế giới :
Khắp thế
giới, từ những dân tộc văn minh cho tới các bộ lạc bán khai, hầu như đều chung
một nhận thức, quan niệm về sự chết, coi đó chỉ là một bước chuyển tiếp, từ một
thế giới này sang một thế giới khác. Tóm lại chỉ khi nào trái đất bị hủy diệt,
từ đó cuộc đời và kiếp người mới thật sự kết thúc. Do đó nhân loại ngày nay không
chấp nhận cõi hư vô. Vì vậy theo tập tục, người sống phải giúp người chết, vượt
qua cái giai đoạn khó khăn này.
Với các
tín đồ Thiên Chúa Giáo, lễ xức dầu thánh lần cuối cùng được xem như là một thứ
giấy thông hành, cấp cho người chết, tới Tòa Án Thiên Ðường , chờ quyết định
cuối cùng. Người theo đạo Zorpastra ở Ba Tư và Ấn Ðộ, thì đọc kinh cầu nguyện,
để mong linh hồn người chết luôn thường trực hiện diện với gia đình, dù thể xác
thật sự đã trở về với cát bụi. Tại Ghana, người chết trước khi lìa đời, được
cho uống rất nhiều nước, để cho họ có đủ sức leo tới đỉch của ngọn đồi Vĩnh
Hằng. Còn người Tàu, Nhật, Cao Ly, Việt Nam.. khi chết, được thân nhân bỏ nhiều
vàng bạc, tiền giấy vào quan tài lúc tẩn liệm, để cho họ có đủ lộ phí tới miền
âm phủ.
Do sự chết
sẽ làm biến dạng thể xác của người quá cố. Ðiều này được coi như một sự ô uế,
vì vậy thân nhân phải luôn tìm cách làm cho tinh khiết, trong sạch người đã
khuất. Tập tục tắm rửa, mặc quần áo mới, đeo những đồ trang sức đẹp nhất cho
người chết, khi nhập quan cũng không ngoài ý nghĩa trên. Ướp xác tại các quốc
gia Hồi giáo, hay tiêm vào xác chết những chất lỏng để khử trùng và giữ nguyên
tử thi trong vài tuần lễ ở các nước phương tây hoặc tập tục hỏa táng tử thi
người chết, theo truyền thống đạo Hindu (Ấn Ðộ).. cũng không ngoài quan niệm
tôn kính người chết.
Ngày nay,
hầu như mọi tôn giáo lớn trên hoàn cầu, đều chấp nhận duy trì sự liên hệ giữa
người sống, kẻ chết sau tang lễ. Vì vậy, người Thiên Chúa Giáo cũng có lễ Thanh
Minh vào ngày 2 tháng 11 Dương Lịch hằng năm. Trước cuộc Cách Mạng Pháp năm
1789, người chết sau khi được chôn cất, coi như là hết và bị thân nhân quên
lãng. Mọi sự đều giao phó cho nhà thờ là đơn vị quản trị các nghĩa trang. Ngày
nay tập tục đó đã lỗi thời và mọi người ai cũng tự lo lắng chăm sóc mô phần cho
thân nhân mình, nhất là vào dịp Thanh Minh. Tại Mễ Tây Cơ, ngày lễ trên cũng là
quốc lễ của nước này. Trong ngày này , mọi người đốt lửa hay thắp nến, để dẫn
đường cho linh hồn người chết về lại với gia đình. Họ cũng mang đồ cúng đến
nghĩa trang , để ăn cổ với thân quyến đã khuất nơi mộ phần.
Tóm lại dù
có theo một tôn giáo nào chăng nửa, nhân thế vẫn cố thắt lưng buộc bụng, cam
chịu đói rách, để lo lắng toàn vẹn cho người quá cố có được một chút hành lý
trên đường về cõi vĩnh hằng. Thật ra quan niệm về thế giới thứ hai, đã có từ
thời tiền sử. Buổi đó tổ tiên ta đã phải cắt xén thức ăn kiếm được, dành một số
lớn vật ngon của lã để cúng các vị thần linh và người chết. Rồi theo thời gian,
tập tục ma chay từ đơn giản biến thành linh đình, vô cùng hao tốn ước lệ. Trong
lễ ma chay, ngoài những hiện vật quý giá như vàng ngọc, quần áo, tơ lụa phải
chôn theo người chết, còn có nhiều món khác rất quý cũng được đốt theo. Mãi tới
ngày nay, tục đốt vàng mã vẫn còn tin tưởng triệt để tại Trung Cộng và Cam Bốt,
kể cả VN xã nghĩa. Hằng năm, mọi người thiêu đốt một lượng giấy tiền, vàng bạc,
đồ thợ mã.. gọi là gửi sang thế giới bên kia cho thân nhân tiêu dùng, với tốn
kém cả tỷ đô la Mỹ.
Với các bộ
lạc còn bán khai ở Á-Phi, sự tin tưởng vào thuyết linh hồn, sự đầu thai và thế
giới bên kia.còn mãnh liệt gấp nhiều lần, so với người văn minh hiện thực. Do
đó, người Chiov ở thượng du Miến Ðiện, hầu như đã dành một phần lớn thức ăn
kiếm được của mình, để dâng cúng thần thánh và vong linh của người khuấn trong
gia đình. Riêng các bộ lạc ở Bengale, thuộc vùng đông bắc Ấn Ðố, lại có tục
cúng người chết hằng ngày. Tuy nhiên tốn kém và rườm rà nhất, cũng vẫn là các
bộ tộc còn bán khai tại Châu Phi. Chẳng hạn như người Pambara ở miền Trung, khi
trong nhà có người qua đời, thì đem làm thịt hết gà vịt, kể cả ngũ cốc dự trữ,
để làm cổ cúng. Còn người Ponéo và Pahovina tại Xích Ðạo, thì đốt bỏ tất cả
những vật dụng, kể cả nhà cửa, có liên hệ tới kẽ mãn phần. Những thứ bị triệt
phá này, được fi chuyển tới phần mộ người chết, nói là dành cho họ tiếp tục
dùng ở phía bên kia thế giới .
Cũng tại
Phi Châu, nhiều nơi còn có phong tục kéo dài đám tang ngày nay qua ngày khác.
Ðể làm tiệc, họ giết nhiều gia súc kể cả trâu bò ngựa. Ðồng thời cũng uống rất
nhiều rượu. Nhưng các đám tang này được tổ chức lớn hay nhỏ, cũng tuỳ theo sự
thu hoạch của mùa màng. Do trên, những người Guerzea ở Guinée đã phải quàng tử
thi của thân nhân mình, trong nhiều năm, để đợi tới khi kiếm được nhiều tiền,
mới tổ chức tiệc tang rất là trọng thể. Người chết này vẫn ở trong nhà và được
ướp xác , để giữ tử thi khỏi bị mục rửa với thời gian. Tại các nước Madagascar,
Lybia, Ả Rạp Thống Nhất, Népal.. cũng có ngày Lễ Fandorana hình thức gần giống
như ngày Thanh Minh ở Á Ðông, nhưng trong ngày này, họ lại giết rất nhiều trâu
bò dê, gà vịt.. để làm cổ bàn.
Nước Nga
trước kia có tục ném tiền vàng vào huyệt của người chết. Rồi qua thời gian,
nhiều vùng đã thay tiền bằng võ sò, giúp thân nhân đã khuất có vốn lập nghiệp.
Nhiều dân tộc, còn thương cho thân nhân mình, bị đói lạnh cô đơn nơi cõi quan
tái muôn trùng, nên trong lúc tẩn liệm, họ chôn theo thật nhiều quần áo vải
vóc. Bộ tộc Samoyèdes và Ostiaks ở Bắc Cực, nên bỏ theo xác chết nhiều mền bông
và quần áo lạnh. Cá dân tộc Phi Châu như Congo, Bambaras, Dougas, Cameroun,
Fali, Madagascar.. đa số không đủ quần áo để mặc hằng ngày vì nghèo cực nhưng
đối với người chết, họ lại mua sắm thật nhiều vải vóc, quần áo mới đẹp, để thân
nhân mang theo có đủ dùng nơi chốn suối vàng.
Nói chung,
trên thế giới có rất nhiều phong tục kỳ lạ, trong vấn đề mai táng người chết.
Tại Madagascar, có tục đào xới nhiều lần xác chết, để sửa đổi thế nằm của tử
thi trong quan tài, sao cho thoải mái. Người theo đạo Hindu tại Ấn Ðộ, khi biết
trước mình sắp chết, thế nào cũng phải nắm cho được đuôi bò lần chót. Có vậy
linh hồn họ mới tới được cõi thiên đàng. Với các dân tộc theo Thiên Chúa Giáo
La Mã Âu Châu, các bệnh nhân trước khi sắp lâm chung, đều được hội kiến với các
vị Cha Sở, để thú tội. Tập tục này được gọi là Sacrement du Pardon. Có như vậy,
linh hồn của người chết mới ra đi được bình an, siêu thoát. Còn những tín đồ
Hồi Giáo, thì phút cuối đời, luôn hướng về ngôi đền thiêng ở La Mecque bên Ả
Rập Thống Nhất, tận miền Tiểu Á TếÀ Á.
3-
Vài phương cách an táng người chết :
Nhân loại
đã hiên hữu trên địa cầu hơn ba triệu năm nhưng theo sử liệu thì mới biết an
táng người chết vào khoảng mấy ngàn năm trở lại, để mong họ an giấc nghìn thu.
Trong lãnh vực này, qua từ ngữ cổ La Mã như Requiem hoặc chữ Churchyard của Anh
và rõ ràng nhất là những lời cầu nguyện cho người chết, nơi trang kinh thánh ‘
Requiem Aeternam Dona Eis Domine ‘..tất cả đều mang chung ý nghĩa chuyên chở
lời cầu nguyện Thượng Ðế, giúp cho linh hồn người chết được tới chốn an nghĩ
cuối cùng.
Sinh ký-tử
quy, đây là một định luật không bao giờ dời đổi của kiếp người. Nhưng củng từ
đó, con người đã bày đặt ra nhiều nghi lễ thật phức tạp, tựu trung cũng chỉ
quanh quẩn việc giúp cho người chết, được an giấc nghìn thu.
Theo khảo
cổ học, thì chính người Néanderthal là dân tộc đầu tiên, nghĩ ra phong tục chôn
cất người chết. Từ đó về sau, dần hồi việc mai táng biến chuyển theo các quy
luật tôn giáo cũng như tập quán bản địa. Cũng từ đó, những tín đồ Phật giáo,
Hồi Hồi, Bà La Môn và gần đây người theo Thiên Chúa Giáo, cũng dùng phương thức
hỏa táng với lòng tin lửa sẽ tẩy sạch linh hồn của người quá cố khi lìa đời.
Tại Ấn Ðộ, có một số tín đồ đạo Hindu, lại theo lối thủy táng, bằng cách đem
xác người đặt trên bè, rồi thả trôi trên dòng sông Hằng, được xem như linh
thiêng nhất trong nước. Với người Tây Tạng, Ấn Ðộ, Ba Tư.. thì quăng xác chết
cho kên kên, diều quạ cùng các loại ác điểu khác, phanh thây tùng xẽo tử thi,
mà họ gọi là Ðiểu Táng. Tóm lại việc an táng người chết, trải qua bao đời, vẫn
thuộc về phạm trù của triết học hay lãnh vực huyền bí thuộc tâm linh, cho nên
chưa ai định nghĩa được. Tóm lại để giúp cho người chết được an giấc nghìn thu,
nhân loại tới nay vẫn theo các phương pháp đã có từ lâu đời như địa táng, hỏa
táng, thủy táng, điểu táng, thiên táng, huyền táng và tượng táng. Mới đây tại
Hoa Kỳ và một vài nước Âu Châu, còn phát minh ra phương pháp làm đông lạnh tử
thi của người chết, nói là chờ ngày tai sinh.
+ HUYỀN TÁNG :
Là lối
chôn người chết lơ lửng trên không trung. Phương pháp chôn cất này, hiện nay
vẫn được các bộ tộc Dogona tại nước Mali (Phi Châu) thực hành. Ở đây, xác chết
sau khi được tẩn liệm xong, sẽ được đem an táng trong nhưng mộ huyệt, do gia
đình đã đào sẵn trên vách núi cao, để tránh các thú dữ không xúc phạm tới các
tử thi của thân nhân mình.
Thật ra
huyền táng là lối chôn cất đặc biệt của người Bặc, là một dân tộc thiểu số sống
trong vùng tây nam tỉnh Tứ Xuyên (Trung Hoa), đã có truyền thống từ thời thượng
cổ. Theo Chiến Quốc Sách, thì Bặc Nhân là một dân tộc độc nhất vô nhị, biết
thực hành phong cách ‘quan nhi bất ế, trí như, trí chư cao nhất ‘, nghĩa là có
quan tài mà không cần phải chôn dưới đất, mà đặt lơ lửng trên vách núi cao.
Ngày xưa
lãnh thổ của người Bặc ở Xuyên Nam, bao gồm các Huyện Hưng Văn, Quán Liêu, Nghi
Tân nhưng tập trung đông đảo nhất ở Vùng Ðê, thuộc Ma Ðường Bá, thôn Lạc Biểu,
Cũng Huyện. Do đó nghĩa trang của họ được dựng lên ở vùng Ðê Ma Ðường Bá, còn
có tên là Bạc Xuyên Câu. Ðây là vùng núi non cao ngất trùng điệp, địa thế vô
cùng hiểm trở nhưng phong cảnh lại hùng vĩ, thanh tú hữu tình. Các vách núi bao
bọc khu cực Ma Ðường Bá đều dựng đứng, không thể tìm được một lối nào để lên
hay xuống. Vậy mà các nhà khảo cổ mới đây, đã tìm thấy trên 22 vách núi dựng
đứng trong vùng này, có 16 cổ quan tài của người Bặc. Ðây là một điều kỳ diệu
mà cũng có thể gọi là một kỳ quan của nhân loại thuở đó.
Tìm hiểu
nguyên nhân tại sao người Bặc lại chon cách chôn cất kỳ lạ và nguy hiểm này.
Các nhà khảo cổ cũng như sừ học đời nay, đều cho rằng, đây là vấn đề nhân bản.
Treo tử thi trên một vách núi cao, vừa trong sạch lại phù hợp với yếu tố phong
thủy. Từ đó linh hồn người quá cố được ung dung thanh thản, bạn với non xanh
núi biếc, tự do du sơn ngoạn thủy, trong khoảnh trời đất mông mênh vô tận.
Ngoài ra theo quan niệm sống của dân tộc Bặc, đem treo quan tài người quá cố
trên vách núi, là một điều đại cát, đại hiếu, trong đạo làm người.
Theo sự
nghiên cứu của các nhà biên khảo, muốn thực hiện huyền táng, đầu tiên phải chọn
vị trí thích hợp trên các vách núi cao. Bước kế là phải có người thiện nghệ leo
núi giỏi, dùng dây mây làm thang, tới thánh dịa đào huyệt và chôn vào đó những
thiết mộc vị, giống như ta làm kim tĩnh bằng gạch khi điạ táng. Sau đó thân
nhân dùng dây, để chuyển quan tài từ dưới đất lên vách núi cao và đặt vào huyệt
và các thiết mộc vĩ vừa mới làm. Về cách thiết trí, người Bặc thường chôn chung
những người trong gia đình, gia tộc vào một vách núi. Những người có vai vế
lớn, quan trọng thì treo trên vị trí cao nhất. Về cách tẩn liệm, cũng có sự dị
biệt. Qua mười cổ quan tài đựợc đưa từ vách núi cao xuống, có cổ được chạm trổ
rất tinh vi, trái lại có cổ đơn sơ giản tiện. Người chết cũng phân biệt rõ
ràng, có người được chôn theo nhiều của cải quý giá, có người chỉ tẩn liệm sơ
sài bình dân. Riêng các cổ quan tài được tạc bằng một loại gỗ rất đặc biệt, có
thể trơ gan cùng tuế nguyệt, gọi là Mã Táng Mộc. Hiện nay dân tộc Bặc đã bị
người Hán diệt chủng, còn gỗ quý kia cũng không còn. Tất cả chỉ còn trơ lai
những chiếc quan tài huyền táng, đối mặt với thời gian suốt mấy ngàn năm qua,
như một nhân chứng còn sót lại trong dòng lịch sử của nhân loại.
+ THIÊN TÁNG :
Có lẽ Tây
Tạng là một quốc gia có phong tục chôn cất người chết kỳ lạ nhất thế giới. Quốc
gia này nằm chót vót trên đỉnh Hy Mả Lạp Sơn, được coi như là nóc nhà của địa
cầu. Ở đây quanh năm suốt tháng băng giá tuyết phủ khắp mặt đất, không thể
trồng trọt được gì, còn nói chi có đất cát để chôn người chết. Chính vì hoàn
cảnh cực kỳ hiểm ác đó, nên mới phát sinh ra phương pháp thiên táng kỳ lạ nhất,
mà tới nay người ta cũng chưa tìm hiểu nổi. Thât ra ở Tây Tạng, không phải chỉ
có thiên táng là phương pháp duy nhất, mà con có địa táng, hỏa táng, thủy táng
cả huyền táng. Tóm lại mỗi cách táng người chết, đều tuỳ theo hoàn cảnh tại đất
nước này. Với đức Lạt Ma và các Ðạt Ma, khi chết được hỏa táng. Những người mắc
bệnh truyền nhiễm nan y, lúc chết được địa táng. Còn thủy táng dành cho nạn
nhân chiến cuộc hay tử nạn. Riêng người thiểu số Luaba thì chọn lối huyền táng.
Nhưng
thiên táng vẫn là một hình thức phổ biến nhất tại Tây Tạng, từ xưa tới nay.
Theo phương thức này, tử thi được tắm gội sạch sẽ bằng nước thơm có pha các
loại hương liệu. Sau đó xác chết bị bẻ gập lại làm đôi, đầu được kẹp giữa hai
đầu gối, để tiện đưa lên Thiên Táng Ðài, trước lúc rạng đông. Sau phần tế lễ,
tử thi được phanh ra từng mảnh nhỏ, đem trộn với bột mì và vo thành viên, rồi
ném cho bầy cim ưng ăn. Ðặc biệt trong thời gian xảy ra thiên táng, tuyệt nhiên
thân nhân người chết không hề phát ra một tiếng khóc thương. Trái lại nếu chim
ưng không tới ăn thịt người chết hay bỏ sót xương thịt kẻ quá cố, chừng đó
những người sống mới lộ vẽ đau khổ bi lụy, vì cho rằng linh hồn người qua đời
sẽ không được siêu thoát. Trong Phật giáo, chỉ có người Tây Tạng theo Kim Cương
Thừa, mới chọn lối mai táng độc nhất vô nhị này. Hiện khắp nước có chừng 1000
thiên táng đài. Tất cả đều được thiết trí gần giống nhau nhưng được coi là linh
thiêng nhất, là đài Motrucungkha, vì ở đó lúc nào cũng luôn có mặt một bầy chim
ưng đông đảo trên 300 con, chực chờ phanh thây ăn thịt người. Ðài này thiên
táng luôn tử thi từ Lhasa, Sơn Nam, Na Khúc, Lâm Chi.. đưa tới. Tuy nhiên trứ
danh nhất trên đất Tây Tạng, phải nói tới đài thiên táng trên Ðạt Mộc Tự tại
Nhiệt Tây, vì tất cả đều được xây dựng từ những chiếc sọ người.
+TƯỢNG TÁNG :
Ðây là phương
thức mai táng độc đáo của VN có từ thế kỷ XVII nhưng chỉ mới được phát hiện gần
đây tại chùa Ðậu, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Ðông (Bắc Việt). Theo niên giám được
ghi trên bia Dương Hoà lập năm 1639, cho biết ngôi chùa trên đã có từ thời Hậu
Lý (thế kỷ thứ XI-XII). Trong chùa hiện còn lưu lai thi thể của hai Thiền Sư Vũ
Khắc Minh và Vũ Khắc Trường, tuy đã trải qua nhiều thế kỷ nhưng vẫn còn nguyên
vẹn hình hài, nhờ được tượng táng. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học trong
và ngoài nước, thì kỹ thuật tượng táng của người Việt hoàn toàn khác hẳn với
ướp xác của cổ Ai Cập hay mới đây của Liên Xô và Trung Cộng, qua việc ướp xác
Hồ Chí Minh, quàn tại Ba Ðình (Hà Nội).
Tượng táng
của VN theo các kỹ thuật sau đây. Trước tiên là giữ cho các tử thi không biến thể
bằng cách dùng các chất bồi gồm đất sét gò mối mịn, trộn với sơn sống, mùn cưa
mịn và giấy bản giả nhỏ. Kế tiếp là một lớp sơn màu cánh gián và ngoài cùng mới
tới lớp sơn dầu. Khi pho tượng táng đã khô sơn, dùng đá mài nhẵn . Ngoài ra,
tại chùa Phật Tích Bắc Ninh, cũng tìm được một pho tượng táng nhưng vì chiến
tranh tàn phá, nên không còn giữ được nguyên vẹn như hai pho tượng táng tại
Chùa Ðậu.
4-
Cái giá phải trả cho giấc ngủ nghìn thu :
Ai cũng
nghĩ rằng chết là hết. Thật ra chết chưa phải là dứt nợ hồng trần, vì cái thể
xác phàm tục vẫn còn hiện diện nơi cõi thế. Cho đến khi nào thân nhân đem cái
tử thi kia địa táng, hỏa táng, thủy táng, điểu táng.. tới lúc đó người chết mới
có thể gọi là được an giấc nghìn thu thật sự.. Nhưng nếu thổ táng, thì không ai
dám chắc là mình sẽ được yên ổn mộ phần sau khi nhắm mắt. Lịch sử đã chứng minh
rõ ràng, cho tới nay, gần hết các vị đế vương, nữ hoàng.. đông tây kim cổ.. từ
Ai Cập, Trung Hoa, Liên Xô, VN đều bị dầy mồ, xới mã, dựng xác trở lại. Mục
đích trả thù, cướp mộ hay nói một cách văn hóa hơn là khảo cổ.
Hơn hết là
tình hình thế giới hiện nay rất xô bồ, phần lớn đều do nạn nhân mãn gây nên.
Tại các đô thị lớn, người sống giới nghèo, đa số cà gia đình nhiều người, phải
chen chúc trong các căn nhà cá hộp. Do trên chừng nào mới tới phiên người chết
có được chốn mồ yên mã ấm ?, ngoài trừ giới qiú tộc, thượng lưu, quan quyền và
bọn nhà giàu có nhiều tiền bạc. Tại Hy Lạp, chỉ có giới trên mới dám bảo đảm ,
thân xác của họ được vĩnh viễn nằm yên một chỗ. Còn tất cả , giống như một vài
thành lớn của Hoa Kỳ, người chết chỉ được tạm trú trong đất của nghĩa trang
thời hạn ba năm. Sau đó, nếu người chết cón may mắn có thân nhân lo lắng, thì
mãnh hình hài còn sót lại, sẽ được dời sang một nghĩa địa khác với tiền mướn đất
rẽ hơn. Hay là đem mớ xương tàn thu vén được, cho vào một chiếc hộp thiếc dài
0,60m, rồi gửi vào Khu chứa hài cốt tập thể gọi là Ossuary. Theo thời giá hiện
nay, tại thủ đô Athens của Hy Lạp, tiền mướn một lô đất tại nghĩa trang, để
chôn là 1000 bảng Anh trong thời hạn 3 năm. Còn nếu muốn được an giấc vĩnh
viễn, phải trả 21.000 bảng Anh. Trong khi đó mức lương trung bình của một công
nhân, viên chức Hy Lạp chỉ có 150 bảng Anh, một tuần.
Tuy không
phải là một quốc gia độc tài đảng tri nhưng Hy lạp lại bị chi phối chặt chẽ,
qua các luật lệ khe khắt của Hội Ðồng Tối Cao Chính Thống Giáo.. Trong lúc đất
nước có diên tích nhỏ bé này, trên bờ Hắc Hải, luôn bị hành hạ vì nạn đô thị
hóa, nhân mãn, sự bành trưóng dân số. Bởi vậy chính phủ yêu cầu người dân hòa táng,
thi thể của thân nhân mình, để giải quyết nạn khan hiếm đất tại các nghĩa
trang. Nhưng yêu cầu của chính phủ đã gặp phải sự chống đối của Hội Ðồng Chính
Thống Giáo, qua luận thuyết :’ Hỏa táng là đồng nghĩa với tận diệt, làm cho
linh hồn người chết không được lên nước thiên đàng ‘.Sau đ1 họ đưa đề nghị, xây
nghĩa trang nhiều tầng tại nghĩa trang và muốn chôn đứng tử thi.Tóm lại ở đâu
cũng vậy, kể cả siêu cường Mỹ, chỉ có người nghèo mới lãnh đủ bất hạnh, chẳng
những lúc sống mà còn ôm theo khi đã nhắm mắt lìa đời.
+ Sự An Giấc Nghìn Thu trong ThiênÐàng Xã Nghĩa VN :
Sau ngày
30-4-1975, nhờ cách mạng đổi đời và sự thống nhất hai miền đất nước. Nhờ vậy,
người dân miền Nam mới biết được cũng như chính mình phải đối mắt với cái giá
phải trả, khi muốn được an giấc nghìn thu, nơi thiên đàng xã nghĩa.
Theo Bùi
Tín viết trong ‘ Sự Thật ‘, thì tại miền Bắc, các cán cao trong đảng, ngoài sự
bày mưu kiếm kế để xâm lăng cưỡng chiếm cho được VNCH, còn lăn xả vào nhau
tranh giành quyền lợi, chức tước, cái ăn và quan trọng nhất là làm sao cũng
phải kiếm cho được một chỗ nằm, để được an giấc nghìn thu, trong nghĩa trang ‘
Mai Dịch ‘ tại Hà Nội, thay vì phải vào chung chạ với thường dân, người nghèo
tại nghĩa địa Vân Ðiển ở ngoại ô.
- NGHĨA TRANG TẠI BẮC VIỆT :
Từ trước
tới nay, Hà Nội có nhiều nghĩa trang lớn và thêm 100 bãi tha ma nhỏ khác, nằm
rải rác khắp nơi trong thành phố và các vùng ngoại o6 như nghĩa trang cạnh công
viên Thủ Lê, hai cái khác ở thị trấn Nghĩa Tân và đường Minh Khai. Năm 1954
cọng sản vào Hà Nội đã ra lệnh giải tỏa tất cả các nghĩa trang củ trong thành
phố, di chuyển ra tận các vùng ngoại ô xa xôi. Các khu Thủ Lê, Nghĩa Tân và
Minh Khai trở thành công viên hay khu phố. Hiện Hà Nội chỉ còn duy nhất nghĩa
trang Mai Dịch nằm trong nội thành, dành riêng cho các cán bộ và quan chức cao
cấp đảng có quyền thế. Ngoài ra có một nghĩa trang lớn ở phía nam là Vân Ðiển,
cùng hai nghĩa trang tân lập là Thanh Tước (Mê Linh-Phúc Yên) và Ba Vì (Bất
Bạt-Sơn Tây).
Cũng theo
Bùi Tín qua sách dẫn trên, thì các cán bộ có quyền thế tại Bắc Bộ Phủ, đã tranh
dành nhau quyết liệt, để khi về chầu tổ Mác-Lê, được vào nằm ở Mai Dịch. Cũng
vì vậy nhiều cán cao cuối đời bị thất sủng mất chức, đã phải vào nằm chung với
dân thường ở Vân Ðiển. Ðó là thân phận của các tướng VC Chu văn Tấn, Ðặng kim
Quang, Trần Tử Bình.. Kể cả những nhà khoa bảng, nhà văn nổi tiếng của Bắc Hà
như Phan Khôi, Ðào Duy Anh, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Hồng, Nguyễn
Tuân, Lưu Quang Vũ, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Gia Trí.. cúc cui tận tuỵ cho đảng,
cuối cùng cũng bị đi Văn Ðiển.
Thật ra
thì khu nghĩa trang này, cũng chẳng có gì quý báu và trang trọng, ngoài việc
được nằm giữa các cơ quan nhà nước như Cư xá Ðoàn Văn Công, Trường Ðại Học Sư
Phạm và Thương Nghiệp. Chính vậy, nên các ngày nghĩ và đêm khuya thanh vắng,
trai gái thường rủ nhau từng cặp, ra đó vừa giải quyết bầu tâm sự cũng như
những ẩn ức tình cảm. Theo tin mới dây, người Hà Nội vì căm ghét tên Lê Ðức
Thọ, cặp bịp bài trùng với Kissinger, trong cái gọi là hiệp định ngưng bắn Ba
Lê 1973, nên rủ nhau vào phóng uế trên lăng của y trong Mai Dịch. Vì không làm
gì được ai, cuối cùng thân nhân tên đại ác phải tức tốc bốc mộ Thọ, đem về quê
tại Nam Ðịnh chôn, để tránh sự xấu hổ và miệng đời bôi bác hằng ngày.
Riêng Văn Ðiển tới nay trên 30 tuổi và là một
đia danh thân quen trên đầu môi chót lười của ngưòi Hà Thành. Với các cụ già
sắp theo chầu tiên tổ, thì ví von gọi mình là ‘ mầm non của Văn Ðiển ‘.Báo tin
người quá cố, qua đồi, mới chết.. thì gọi là ‘ đi Văn Ðiển ‘.Tất cả sự trào
phúng ví von trên, mục đích cũng chỉ để quảng cáo Văn Ðiển là nơi chốn, mà
người Hà Nội cần để đăng ký hộ khẩu nơi miền âm cảnh.
Theo tài
liệu, thì nghĩa trang Văn Ðiển nằm về phía nam Hà Nội, giữa hai con sông nhỏ Tô
Lịch và Kim Ngưu. Vùng này có rất nhiều ao hồ và đồng ruộng, cũng là khu ngoại
thành, phát triển vì nạn tăng dân số tại thủ đô từ nhiều năm qua, nhất là sau
thời kỳ VN mở cửa. Theo báo chí thì vùng này được coi là dơ bẩn, độc địa và bị
ô nhiễm nhất nước. Nguyên nhân vì suốt mấy chục năm qua, đã phải hứng chịu mấy
chục ngàn tấn phân hủy, từ tử thi người chôn dưới đất, ngấm qua các nguồn nước
quanh Văn Ðiển, tới các giếng nước dùng ăn uống, ao nuôi cá và các vườn rau
xanh
Văn Ðiển
hiện nay đã qua tải, hết đất, nên đảng cho áp dụng nguyên tắc, chỉ cấp hộ khẩu
cho người chết ba măm. Quá thời hạn trên, nếu bất cứ một lý do gì mà thân nhân
chưa kịp hốt cốt lên nghĩa địa Mê Linh hay Ba Vì. Những ngôi mộ đó lập tức sẽ
bị xe cầy tới dầy mồ, để có chỗ cho cư dân khác tới tạm trú.
Dưới chế
độ xã nghĩa, mọi việc đều làm theo kiểu chiếu lệ, chỉ cần có báo cáo đầy đủ
trên công văn giấy tờ, là yên chuyện. Bởi vậy tại nghĩa trang Văn Ðiển, dù rằng
có ban quản lý nhưng từ cổng bước vào, nơi nào cũng la liệt những vải liệm, ván
mỏng, đồ tẩn táng và cả xương vụn. Những thứ này sau đó vào mùa mưa, sẽ biến
thành một lớp bùn đen đặc quánh, gây nổi kinh hoàng khủng khiếp, cho những ai
nhỡ vì bắt buộc, phải bước vào nghĩa trang. Mấy lúc gần đây, cán bộ đảng lại có
phép mở thêm dịch vụ rửa các hài cốt khi bị bốc mô. Nước rửa xương từ các bệ xi
măng, được phóng vào các cống rãnh, thông vào các ao rạch, sông hồ quanh vùng.
Ðây chính là nguồn nước mà người dân sống quanh vùng Văn Ðiền hằng ngày, dùng
để ăn uống và tưới các vườn rau xanh.
+ NGHĨA TRANG BÌNH HƯNG HÒA TẠI BÌNH CHÁNH-GIA ÐỊNH :
Ðược thành
lập trước năm 1975, nghĩa trang Bình Hưng Hoà có diện tích trên 40 mẫu tây, tọa
lạc tại quận Bình Chánh, tỉnh Gia Ðịnh. Vì nghĩa địa này nằm sát thành phố, nên
đêm ngày cũng rộn rịp theo sinh hoạt của người sống, chứ không hoang vắng lạnh
lẽo như các nới khác. Trước đây Bình Hưng Hoà được phân chia thành từng khu vực
riêng biệt, căn cứ theo tín ngưỡng tôn giáo.
Sau ngày
30-4-1975, tất cả đều đổi đời nên hầu như không ai còn dám nghĩ tới những gì
mình đã cố giữ trước kia, theo truyền thống luân lý xã hội. Tất cả chỉ còn biết
bám víu vào đời, để sống được phút nào hay phút đó. Cho nên cái không khí trần
tục cũng được con người, mang từ ngoài xã hội xô bồ vào trong cái thế giới cô
tịch của cõi âm, làm phiền lòng nhưng người đang nghìn thu an giấc.
Từ sau năm
1979, trong Bình Hưng Hoa đã có thêm lò thêu và những băng đảng thầu, lo việc
mai táng và xây các phần mộ. Mỗi nhóm có một khu vực riêng biệt, được chia phân
ngầm bằng những luật lệ bất thành văn nhưng chắc hơn đinh đóng cột. Dĩ nhiên
phần tốt, béo bở phải là khu vực của các đại ca, có thế lực với công an địa
phương, có thực lực mạnh. Ở đây dành cho giới quan quyền, nhà giàu, nên chỗ nằm
rất tốt, hạp với phong thổ địa lý, sát đường lộ chính. Những người nghèo khổ,
không có tiền hay nhiều tiền, cam phận hẳm hiu nơi tận cùng, chẳng khác gì số
kiếp của họ lúc sống.
Cho nên
giữa chốn âm âm dương dương này, gần như không có sự phân biệt đâu là mồ của
người chết, hay chốn ở của người cõi trần. Thật vậy, xuyên suốt con đường đất
đỏ dẫn vào nghĩa trang, ở đâu cũng thấy xen kẽ lớp lớp mộ chí trùng trùng và
những hàng quán ăn uống, tiệm đóng hòm, khu bán vật dụng xây cất, đúc bia đá,
đồ tẩn liệm , kể cả các lều tạm bợ to bằng hai ngôi mả, của các bà chuyên môi
giới những liên hệ tới sự chết. Ngoài ra đây cũng là nơi cây cao bóng mát, chốn
thiên đường để người địa phương vào tránh cái nóng chết người, trong những căn
nhà cá hộp của họ ở bên ngoài.
Cứ tưởng
sự phân chia giai cấp, cảnh giàu nghèo chỉ có ờ chốn phàm tục nhưng dâu ngờ nó
vẫn tiến nhanh tiến mạnh một cách vững chắc ngay trong nghĩa địa. Cứ nhìn những
ngôi mộ lát đá hoa cương, những nhà mồ lầu, còn hơn cả lăng tẩm của vua chúa
ngày xưa, chung quanh có có tường gạch, rào sất cao và cổng sơn son thiếp vàng
đóng kín, vì ở trong đó có cả gia đình người sống được mướn để săn sóc và canh
giữ mộ đêm ngày. Tóm lại ở đây không thiếu những ngôi mộ to đẹp mà thời giá lên
tới cả trăm triệu tiên Hồ. Tuy nhiệt tuyệt đại mồ mả ở đây, có nhiều cái rẻ tới
mức không còn gì rẽ hơn. Ðó là những nấm đất sè sè lăn lóc bên vệ đường, có cái
trơ trọi không bia , có ngôi hoang tịch đến nỗi cỏ còn không mọc nổi, đây là mồ
người nghèo, chết rồi không ai chôn nên được mọi người vùi làm phước.
Trong
nghĩa trang Bình Hưng Hoà, ngoài cảnh sống chung hòa bình, hòa hợp hòa giải
giữa hai thế giới âm âm dương dương, hồn ai nấy biết, mạng người nào thì kẻ ấy
lo, lại còn có rất nhiều con ma sống. Chúng giống như những hình nộm vật vờ,
thường vào đây để hút chích và tìm của lạ. Ma sống nhiều quá, gần như nơi nào
cũng thấy hiện diện, qua cảnh tưọng những ống tiêm chích, nằm ngổn ngang bừa
bãi. Nhiều kim chích còn nguyên những giọt máu tười, chứng tỏ ma sống vừa mới
thăng đâu đó.
Ở đây cũng
không khác gì nghĩa trang Văn Ðiển trên đất bắc.. Ðó là nguồn nước mà người địa
phương trong vùng, dùng để ăn uống đã bị nhiễm độc một cách trầm trọng nguy
hiểm, dù các giếng nước đã khoan sâu quá 30m, vẫn có mùi bùn. Bởi vậu nước dù
đã đun sôi và pha trà, nhưng mùi thì không thay đổi, lại khó uống. Thế nhưng vì
hoàn cảnh, không uống nước này, không sống ở đây, thì uống và sống chỗ nào nơi
thiên đàng xã nghĩa ?
5
- NGHĨA TRANG QLVNCH TẠI BIÊN HÒA :
Người Mỹ,
dù thuộc thành phần hay thế hệ nào, trong thâm tâm ai cũng ao ước được một lần
tới chiêm ngưỡng Nghĩa Trang Quốc Gia Hoa Kỳ tại Arlington, để biết ơn tấm lòng
hy sinh cáo quý của những anh hùng đã xả thân hy sinh cho quốc dân gấm vốc.
Trước
tháng 4-1975, miền NamVN cũng có một nghĩa trang Quốc Gia tại Biên Hòa, là chốn
an giấc nghìn thu của hằng vạn chiến sĩ QLVNCH, đã hy sinh bản thân, gia đình
mình, để ngăn chống lại cuộc xâm lăng của cọng sản đệ tam quốc tế. Tất cả muôn
đời trong dòng lịch sử Việt, những chiến binh ‘ vi quốc vong thân ‘, còn ai
xứng đáng hơn họ ?
Ðược thành
lập vào năm 1965, trên một khu đất rộng của một ngọn đồi thấp , khỏang giữa xa
lộ Biên Hòa-Sài Gòn. Khi VNCH bị cưởng chiếm, trong nghĩa trang có hơn 30.000
mộ phần, gồm đủ tướng lãnh (Ðại tướng Dỗ Cao Trí..). sĩ quan, hạ sĩ quan, binh
sĩ.. đủ các quân binh chủng.
Nghĩa
trang được thiết kế theo mô hình con ong. Trước cổng ngay lối vào có thiết kế
pho tượng hình một người lính trận cao 5m, ngồi trên một bệ cao 3 m, tất cả
bằng đồng đen. Pho tượng mang tên ‘ tiếc thương ‘, với ngụ ý là chỉ có người
lính, mới biết thương cho thân phận của chính mình và các chiến hữu đồng đội,
giữa một cái thế giới bạc đen vong ân bội nghĩa của người miền Nam lúc đó.
Trước khi vào khu vực nghĩa trang, mọi người
phải qua một cổng tam quan trước Ðền Thờ Liệt Sĩ được dựng trên một ngọn đồi
thấp. Từ đó con đường chính, được chia thành hai lối và chạy vòng khắp khu vực,
gặp nhau ở phần lô cuối cùng. Cũng trên ngọn đồi này, còn có Nghĩa Dũng Ðài,
bên trên được xây một bia ký có hình lưỡi lê. Ngoài các tướng lãnh khi qua phần
với bất cứ lý do gì, được an giấc trong một khu vực riêng kế Ðài. Còn tất cả
đều dành chôn chiến sĩ QLVNCH, không phân biệt quân binh chủng, cấp bậc.
Nghĩa trang QÐ Biên Hòa được hoàn thành qua sự
phối họp của nhiều đơn vị gồm có : Bộ Công Chánh, Trường Kỹ Thuật Phú Thọ, Cục
Công Binh, Liên Ðoàn 5 Công Binh Kiến Tạo.. Riêng DD541 thuộc TD54CBKT là đơn
vị trực tiếp thực hiện xây dựng. Khởi công từ tháng 11-1967 và dự trù hoàn tất
vào ngày Quân Lực 19-6-1975. chưa kịp làm lễ khánh thành thì mất nước.
Theo tài
liệu, thì Nghĩa Trang QD. Biên Hòa chiếm một diện tích 125 ha, có thể chôn được
30.000 phần mộ, chia thành nhửng vòng cung, với những mộ phần mang danh hiệu
như A1, A2.. B1, B2.. Tính đến tháng 4-1975 đã có hơn 16.000 chiến sĩ QLVNCH
các cấp an giấc tại đây, trong số này hơn 8.000 ngôi mộ, đủ cấp bậc, đã xây cất
hoàn toàn rất đẹp và trang trọng. Công trình xây cất nghĩa trang được dự trù sẽ
khởi công tiếp giai đoạn 2, với ngân khoản lên tới 100 triệu tiền VNCH năm
1973, do Ðiệu Khắc Sư Lê Văn Mậu phụ trách trong 6 năm, để thực hiện một tác
phẩm nghệ thuật vĩ đại, trên chiếc vành khăn tang, trên Nghĩa Dũng Ðài. Tác
phẩm nghệ thuật này, sẽ ghi lại những trang lịch sử huy hoàng nhất trong dòng
Việt Sử, gồm 16 giai đoạn quan trọng nhất, từ buổi bình minh các Tổ Hùng dựng
nước Văn Lang.. cho tới các thành quả ngăn chống xâm lăng cọng sản, của QLVNCH.
Một công
trình lịch sử vĩ đại, tiếc thay đã chìm theo giấc mơ quang phục và thống nhất
đất nước, khi giặc Hồ tràn vào. Sau ngày mất nước, VC thẳng tay trả thù người
sống lẫn kẽ chết. Hầu hết các nghĩa trang quân đội tại miền Nam từ Quảng Trị
vào Hà Tiên, trong đó có Nghĩa Trang Quốc Gia Biên Hòa, đều bì dầy mồ, tàn phá
đồng thời ngăn cấm gia đình thân nhân lính đến thăm viếng sửa sang mộ phần.
Năm 1978
em ruột Lê Ðức Thọ là Mai Chí Thọ, lúc đó làm thành ủy Sài Gòn, đã cùng với
trùm công an Mười Hương, ra lệnh giải tỏa Nghĩa Trang Mạc Ðỉnh Chi nằm giữa hai
con đường Hiền Vương và Phan Thanh Giản. Nói cho văn chương là giải tỏa để lấy
đất làm Cung Thiếu Nhi Lê Văn Tám, nhưng theo Bùi Tín, thì mặt thật là cướp mộ.
Ai cũng biết nghĩa trang này tuy chỉ có khoảng 300 ngôi mộ nhưng lại toàn là
thành phần thượng lưu giàu có của Miền Nam lúc đó. Theo phong tục của người VN,
nên đồ tẩn liệm trong quan tài, có rất nhiều châu báu vàng ngọc vô cùng quý
giá. Nhờ vậy, Mai Chí Thọ cùng Mười Hương đã hốt của người chết rất nhiều vàng
tiền.
Tóm lại từ
sau cuộc đổi đời tới nay, cái giá mà người VN phải trả, để xin được một giấc
ngủ ngàn thu tại thiên đường xã nghĩa, thật vô cùng đắt, gần như không thể thực
hiện được. Khắp nước lịnh vua thua lệ làng, nên dân chúng ngày nay không biết
đâu mà mò. Ðại đa số tuy làm trái ngược với phong tục tập quán của tổ tiên, khi
đem xác của thân nhân đi hỏa táng. Nhưng biết làm sao hơn, vì người sống còn
không sống yên một chỗ, thì cái sự dời nghĩa trang, cầy mã.. người chết là một
sự việc rất bình thường. Cho nên thiêu xác thân nhân, rồi đem tro cốt gửi vào
chùa, đình, nhà thờ là hợp lý nhất, vì như vậy, người chết mới còn ngồi yên
được một chỗ tên bàn thờ.
Ngày
15-12-2004 vừa qua, báo Người Lao Ðộng trong nước đã viết :’ Hà Nội chưa duyệt
dự án, quyết định thu hồi đất cũng không ban hành, nhưng tin lại loan trên đài
phát thanh và truyền hình địa phương, làm cả thành phố Phan Thiết hỗn loạn vì
lệnh dời mã cầy mồ, để lấy đất bán cho Việt Kiều và Tư bản nước ngaòi xây khách
sạn, khu du lịch ‘.
Cũng theo
báo trên viết rằng, nhà nước lấy đất làm gì thì ai đâu biết, người dân địa
phương chỉ nhận lệnh trên đài, phải chạy đi dời mả thân nhân. Ðây không phải là
lần đầu, làm hệ luy đến con cháu đời sau vì người chết cứ bị dầy mồ liên tục.
Tại đây có hơn 10.000 ngôi mộ, đã có từ trước năm 1975, nhiều mã mới chôn một
vài tháng.
Tuy đông
và tây có nhiều điểm dị biệt nhưng cũng đã cảm thông với nhau, trong quan niệm
tôn vinh và chăm sóc người chết.. Do trên nhiều quốc gia cách xa hằng vạn dặm
nhưng lại có nhiều tập tục giống nhau trong tang lễ. VN và Pháp có tập tục
không cho đồng hồ treo tường gõ nhịp, còn màn cửa thì kéo lên, khi quan tài còn
quàn trong nhà. Làm như vậy để linh hồn người chết được tự do bay bổng lên cõi
thiên đàng. Trong thời gian có tang chế, tất cả thau đựng nưốc, gương soi mặt
đều dấu kín, không cho người chết nhìn rõ dung mạo đã thay đổi của mình. Lúc
đưa quan tài ra cửa, chân đi trườc đầu đi sau, để người chết đừng lưu luyến níu
kéo kẻ thân khac trong gia đình chết theo họ.
Với từ tâm
đó, đã nói lên lòng thương xót kẻ qua đời một cách vô hạn, đúng như lời dạy của
thánh hiền :’ nghĩa tử là nghĩa tận ‘, chết coi như hết thù hận và xí xóa tất
cả nợ nần mà người đó lúc sống đã gây ra. Nhưng cọng sản thì chết vẫn chưa hết,
vẫn phải trả thù, trả nợ. Nên nói đông tây vẫn có thể gặp nhau là một chân lý.
Còn cọng sản và quốc dân VN, thì vĩnh viễn không bao giơ ợcó thể hòa hợp, hòa
giải hay ‘ nối vòng tay lớn ‘ với kẻ thù của dân tộc được. Bởi một đàng có tim
óc tình người, còn một phía thì không tim óc và đã mất đi nhân tính, khi trót
bị chủ thuyết vô thần Lê-Mác-Mao-Hồ đầu độc, không còn thuốc thang gì cứu được,
ngoại trừ từ bỏ hẳn độc tài, độc đảng, độc trị và sự thù hận đồng loại, đồng
bào, để trở về với truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt.
‘ Mai, nếu
có cuộc đổi đời lần nửa
ta xin
dành phần : đăng báo, phân ưu
đồng đội
xưa đã chết trận, chết tù
thảm thiết
quá những hồn ma vất vưởng .. ’ ’
Viết tại Xóm Cồn Hạ uy Di
Tháng 3-2015
Mường Giang
TÀI LIỆU THAM KHẢO :
- Hoa Xuyên Tuyết của Thành Tín
- Mặt Thật của Thành Tín
-Nghĩa Trang QD. Biên Hòa, tài liệu của KBC Hải Ngoại
-Nghĩa Dũng Ðài - Tú Cao
-Các sách báo trong và ngoài nước
No comments:
Post a Comment